2. Cấu tạo và tính chất của tụ hóa là gì? Tụ nhôm chính là một loại thuộc tụ hóa hay tụ điện phân, nó được làm bằng hai lá nhôm và một miếng đệm bằng giấy được ngâm trong dung dịch điện phân để tạo thành điện môi cách điện. Một trong 1 lá nhôm sẽ được
xác định cấu tạo ngữ pháp của các câu văn sau và cho biết câu đó là câu đơn hay câu ghép. a. màn đêm buông xuống, ông trăng hiện lên vành vạnh, tròn như một mâm cỗ chan chứa ánh vàng. b. khi chiều thu buông xuống, lúc đã kiếm ăn no nê trên bãi trên đồng, chiền chiện vụt bay lên như viên đá ném vút lên trời. c. dưới gốc tre, tua tủa những mầm măng …
phân tích cấu tạo ngữ pháp của các câu sau. 1. .Bằng những nỗ lực to lớn của cán bộ giáo viên toàn trường, trong năm học vừa qua, chúng ta đã đạt được nhiều thành tích trong công tác chăm sóc và giáo dục trẻ.
Viết đoạn văn phân tích giá trị gợi hình và giá trị biểu cảm của các từ ngữ trong hai câu sau: -Phân tích ý nghĩa tu từ của những câu thơ sau: -Phân tích ý nghĩa tu từ của những câu thơ sau: Sáng tạo Tầm nhìn của các giải pháp cho bài tập về nhà lớp 10
Full (adj) + grown (V 3) => Full-grown: phát triển đầy đủ. Tính từ + N-ed. Right (adj) + angled (N-ed) => Right-angled: vuông góc. *LỜI KẾT: Sau khi học xong buổi học này, VAEnglish cá chắc rằng các bạn sẽ thấy và hiểu được rõ cấu tạo của các từ trong tiếng Anh, và chắc chắn việc
.
Câu hỏi Câu 4 điểm Phân tích cấu tạo ngữ pháp của câu sau và cho biết nó thuộc kiểu câu nào? Họ đã luôn nhìn mẹ như vậy để mong chờ được cứu sống. Con trai của mẹ,con đã bao giờ nhìn thấy sự cầu cứu dâng lên trong ánh mắt nhưng người nhà bệnh nhân chưa ? Họ đã luôn nhìn mẹ như vậy để mong chờ được cứu sống/trích trong bức thư của nữ bác sĩ gửi con trai là bệnh nhân Vũ Hán gây bão mạng/Câu 1 gọi tên phép liên kết của từ ngữthực hiện phép liên kếtcâu 2 Xem chi tiết Câu 5 0,5 điểm. Phân tích cấu tạo ngữ pháp của câu văn sau Người có tính khiêm tốn thường hay cho mình là kém, còn phải phấn đấu thêm, trau dồi thêm, cần được trao đổi, học hỏi nhiều thêm. Xét về cấu tạo, câu văn trên thuộc kiểu câu gì?Giúp mình với, mình đang cần gấp ạ Xem chi tiết Hãy xác định cấu trúc ngữ pháp của câu sau và cho biết chúng thuộc kiểu câu gì?Gió rất mạnh, mưa rất to, cây bưởi diễn không đủ sức chống chọi với bão, vì vậy, cây bưởi ta đã dùng thân mình để che chở cho cây bưởi diễn không bị bão quật gãy, nó hét lên trong bão. mn giúp em vs ạ Xem chi tiết “Nho chống tay về đằng sau, ngả hẳn người ra. Cái cổ tròn và những chiếc cúc áo nhỏ nhắn. Tôi muốn bế nó lên tay. Trông nó nhẹ, mát mẻ như một que kem trắng. Đại đội trưởng hỏi chúng tôi có cần người không. Tôi bảo không. Như mọi lần, chúng tôi sẽ giải quyết hết. – Hay lắm, cảm ơn các bạn! – Đại đội trưởng lại cảm ơn – Cả đơn vị đang làm đường cho một trung đoàn tên lửa qua rừng. Đi từ sáng không ngủ. Tôi cũng đi bây giờ. Các bạn cố gắng là tối lại ra đường luôn. Thường xuyên...” 1. “Chú...Đọc tiếp Xem chi tiết xứt về cấu tạo câu khi gươm giáo của hai bên đã chạm nhau thì quăng ván xuống đất ai nấy cầm dao ngắn chém bừa những người cầm binh khí theo sau cũng nhất tề xông tới mà đánh thuộc kiểu câu gì vì sao em cho là như vậy Xem chi tiết Thành phần được gạch chân trong câu sau “Và thường thường, như mối giao cảm giữa họ với nhau, sức mạnh ánh mắt của Bấc làm cho Giôn Thooc- tơn quay đầu sang và nhìn lại nó, không nói năng gì…” thuộc thành phần gì trong câu? A. Thành phần khởi ngữ B. Thành phần phụ chú C. Thành phần tình thái D. Thành phần gọi- đápĐọc tiếp Xem chi tiết Phân tính cấu tạo và kiểu câu của câu văn sau Nhưng từ hôm ấy cháu sống thật hạnh phúc Xem chi tiết BÀI TẬP VĂNÔN VĂN BẢN BÀN VỀ ĐỌC SÁCH1. Giới thiệu ngắn gọn về tác giả văn bản Bàn về đọc sách2. Đọc kĩ câu văn sau và trả lời câu hỏi bên dướiĐọc sách là muốn trả nợ món nợ đối với thành quả nhân loại trong quá khứ, là ôn lại kinh nghiệm, tư tưởng của nhân loại tích lũy mấy nghìn năm trong mấy chục năm ngắn ngủi, là một mình hưởng thụ các kiến thức, lời dạy mà biết bao người trong quá khứ đã khổ công tìm kiếm mới thu nhận Nội dung câu văn nói gì?b/ Phân tích cấu tạo ngữ pháp c...Đọc tiếp Xem chi tiết Đọc đoạn trích đã cho trang 90 .SGK Ngữ văn 9, tập 2 và trả lời câu Dậu vừa nói vừa mếu- Thôi u không ăn, để phần cho con. Con chỉ được ăn ở nhà bữa này nữa thôi. U không muốn ăn tranh của con. Con cứ ăn thật no, không phải nhường nhịn cho Tí chưa hiểu hết ý câu nói của mẹ, nó xám mặt lại và hỏi bằng giọng luống cuống- Vậy thì bữa sau con ăn ở đâu?Điểm thêm một “giây” nức nở, chị Dậu ngó con bằng cách xót xa- Con sẽ ăn ở nhà cụ Nghị thôn Tí nghe nói giãy nảy, giống nh...Đọc tiếp Xem chi tiết
Phân tích cấu tạo ngữ pháp trong những câu sau và cho biết chúng là câu gì ?a, Anh trai là sinh viên còn em là học sinhb, Vì đường trơn nên tôi phải đi chậm lạic, tôi đang đi học trờ mưa to nên tôi quay về1 Đáp án và Share Page Lazi để đón nhận được nhiều thông tin thú vị và bổ ích hơn nữa nhé! Học và chơi với Flashcard Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng xu từ LaziBảng xếp hạng thành viên06-2023 05-2023 Yêu thíchLazi - Người trợ giúp bài tập về nhà 24/7 của bạn Hỏi 15 triệu học sinh cả nước bất kỳ câu hỏi nào về bài tập Nhận câu trả lời nhanh chóng, chính xác và miễn phí Kết nối với các bạn học sinh giỏi và bạn bè cả nước
Trong Việt ngữ học hiện đang tồn tại hai quan niệm bất đồng về việc phân tích cấu trúc cú pháp của cú và câu tiếng Việt phân tích theo quan hệ chủ - vị hay phân tích theo quan hệ đề - thuyết. Sự bất đồng này kéo theo những hệ lụy nhất định, gây khó khăn cho việc việc dạy và học tiếng Việt như một bản ngữ và như một ngoại ngữ. Vì vậy, dù muốn hay không, giới Việt ngữ học cũng phải tiếp tục tìm cách giải quyết bất đồng này nhằm tìm ra được một cách tiếp cận thỏa đáng đối với việc phân tích cấu trúc cú pháp tiếng Việt để ứng dụng vào thực tiễn dạy và học tiếng Việt CẤU TRÚC CÚ PHÁP CỦA CÂU TIẾNG VIỆT CHỦ -VỊ HAY ĐỀ - THUYẾT? [*] Nguyễn Hồng Cổn Trong Việt ngữ học hiện đang tồn tại hai quan niệm bất đồng về việc phân tích cấu trúc cú pháp của cú và câu tiếng Việt phân tích theo quan hệ chủ - vị hay phân tích theo quan hệ đề - thuyết. Sự bất đồng này kéo theo những hệ lụy nhất định, gây khó khăn cho việc việc dạy và học tiếng Việt như một bản ngữ và như một ngoại ngữ. Vì vậy, dù muốn hay không, giới Việt ngữ học cũng phải tiếp tục tìm cách giải quyết bất đồng này nhằm tìm ra được một cách tiếp cận thỏa đáng đối với việc phân tích cấu trúc cú pháp tiếng Việt để ứng dụng vào thực tiễn dạy và học tiếng Việt. Bài viết này là một cố gắng đi theo hướng đó. Nội dung của bài viết gồm 2 phần Phần một trình bày tổng quan các quan niệm khác nhau về phân tích cấu trúc cú pháp của cú và câu tiếng Việt và những bất cập của các quan niệm này đối với việc phân tích cú pháp tiếng Việt. Phần hai đề xuất một cách tiếp cận mới về vấn đề hữu quan, trong đó xác nhận vai trò của cấu trúc chủ - vị với tư cách là cấu trúc cú pháp của cú nhằm mã hóa nghĩa biểu hiện của nó và vai trò của cấu trúc đề - thuyết với tư cách là cấu trúc cú pháp của câu nhằm tổ chức và truyền đạt một thông điệp. 1. Các hướng phân tích cấu trúc cú pháp của cú/câu tiếng Việt. Hướng phân tích theo quan hệ chủ -vị. Đây là hướng phân tích cấu trúc cú pháp câu tiếng Việt phổ biến ở Việt Nam, hiện vẫn được sử dụng trong ngữ pháp nhà trường. Hướng phân tích này chịu ảnh hưởng cách tích phân tích cấu trúc câu theo quan hệ chủ - vị của ngữ pháp truyền thống châu Âu, đặc biệt là ngữ pháp tiếng Pháp. Trong các công trình nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt đầu tiên đi theo hướng này Trần Trọng Kim 1936, Phan Khôi 1948, Bùi Đức Tịnh 1952, cấu trúc cú pháp của câu thường được mô tả qua khái niệm mệnh đề với nòng cốt là cấu trúc chủ - vị. Theo Trần Trọng Kim 1936 thì “phép đặt câu là phép đặt các tiếng thành mệnh đề và đặt các mệnh đề để lập thành câu” và “câu lập thành do một mệnh đề có nghĩa lọn hẳn, hoặc do hai hay nhiều mệnh đề”. Mệnh đề bao gồm hai thành phần chính là chủ từ tiếng đứng làm chủ và động từ hay tính từ chỉ cái dụng hay cái thể của chủ từ; ngoài ra còn có túc từ phụ thêm cho chủ từ, động từ, tính từ tr. 21-29. Để mô tả cấu trúc cú pháp của câu đơn, Phan Khôi 1948 đã xác định một danh sách thành phần câu đầy đủ hơn gồm 6 thành phần chủ ngữ, vị ngữ, tân ngữ, bổ túc ngữ, hình dung phụ gia ngữ và phó từ phụ gia ngữ trong đó chủ ngữ và vị ngữ được coi là hai thành phần chủ yếu của câu chủ ngữ “nói về cái gì, ấy tức là “chủ thể” trong câu”, còn “vị ngữ thì” thuật thuyết “cái thế nào” về chủ ngữ ấy”. Điều đáng lưu ý là Phan Khôi đã thay thế các thuật ngữ chủ từ/động từ bằng các thuật ngữ chủ ngữ/vị ngữ, phản ánh đúng hơn bản chất ngữ pháp chức năng chứ không phải từ loại và tính cấp độ ngữ chứ không phải là từ của các thành phần câu hữu quan. Bùi Đức Tịnh 1952 cũng cho rằng câu có một mệnh đề tức câu đơn -NHC gồm có hai phần 1. Chủ ngữ chỉ người hay vật được nói đến, 2. Tuyên ngữ những gì để nói về người hay vật ấy” Quan điểm cho rằng cấu trúc cú pháp của câu đơn tương ứng với cấu trúc chủ -vị của mệnh đề ngữ pháp cú được các nhà Việt ngữ học kế thừa và phát triển theo những hướng khác nhau. Hầu hết các nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục hướng lưỡng phân cấu trúc cú pháp của mệnh đề/câu đơn theo quan hệ chủ -vị và dùng các thuật ngữ cụm từ chủ -vị Nguyễn Kim Thản 1964, kết cấu chủ - vị Hoàng Trọng Phiến 1980, cụm chủ -vị Diệp Quang Ban 1984 hay câu chủ -vị Lê Xuân Thại 1994 để chỉ kiểu cấu trúc này. Tuy nhiên, một số tác giả khác lại cho rằng cấu trúc cú pháp của câu không phải là một kết cấu chủ -vị mà là một kết cấu tiêu điểm focal construction có vị ngữ làm trung tâm và các bổ ngữ tiêu điểm focal complement, trong đó chủ ngữ cũng chỉ là một loại bổ ngữ Thompson 1965, hoặc là một cấu trúc nòng cốt tối giản gồm vị ngữ cùng các tham tố của nó là chủ ngữ và bổ ngữ bắt buộc Nguyễn Minh Thuyết & Nguyễn Văn Hiệp 1998. Mặc dù thống nhất dùng chủ ngữ và vị ngữ là hai thành phần chính của câu đơn/mệnh đề nhưng các tác giả theo hướng phân tích này chưa thống nhất với nhau về chức năng của chủ ngữ và vị ngữ. Một số tác giả cho rằng cấu trúc-chủ vị biểu hiện một sự tình, trong đó chủ ngữ thường biểu thị chủ thể của hành động quá trình hay trạng thái còn vị ngữ biểu thị hành động quá trình, trạng thái của chủ thể. Chẳng hạn, theo Trần Trọng Kim 1936, “chủ từ” chủ ngữ biểu thị “cái thể của chủ từ” tức chủ thể, còn tính từ và động từ thì chỉ “cái thể” tính chất, trạng thái và “cái dụng” hành động, quá trình của chủ từ Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê 1964 quan niệm câu đơn cú là câu diễn tả một sự tình, trong đó chủ từ biểu thị các chủ thể hay là “chủ sự” của sự tình. Tương tự, Diệp Quang Ban 1984 coi chủ ngữ là thành phần chính “chỉ ra cái đối tượng mà câu nói đề cập đến và hàm chứa hoặc có thể chấp nhận cái đặc trưng hành động, trạng thái, tính chất, sẽ được nói ở vị ngữ” còn vị ngữ là thành phần chính “nói lên cái đặc trưng vốn có ở vật hoặc có thể áp đặt hợp lý cho vật nói ở chủ ngữ” tr. 142. Nói tóm lại, theo cách tiếp cận này cấu trúc chủ -vị có chủ ngữ ngữ pháp trùng với chủ thể lôgich của sự tình. Theo một số tác giả khác thì cấu trúc chủ -vị không chỉ có chức năng biểu hiện sự tình mà còn có chức năng truyền tải một thông điệp hay biểu hiện một phán đoán, nói theo cách nói của lôgich học, thậm chí chức năng chủ yếu của nó là truyền tải thông điệp. Khi nói về câu, Bùi Đức Tịnh 1948 cho rằng câu 1. Cho biết người hay vật được nói đến. 2. Trình bày một việc xảy ra cho người ấy hay vật ấy hoặc một ý kiến của ta về người hay vật ấy. Tôi nhấn mạnh –NHC. Trên cơ sở đó, tác giả đã định nghĩa chủ ngữ và vị ngữ bằng chức năng của chúng trong việc tổ chức thông điệp chứ không phải bằng chức năng biểu hiện sự tình 1. Chủ ngữ chỉ người hay vật được nói tới, 2. Tuyên ngữ những gì để nói về người hay vật. Theo cách hiểu này thì kết cấu chủ -vị có chủ ngữ không chỉ trùng với chủ thể lôgich mà cả với chủ thể tâm lý “cái được nói tới” của phán đoán. Sau Bùi Đức Tịnh, nhiều tác giả khác cũng nhấn mạnh đến chức năng tổ chức thông điệp của cấu trúc chủ -vị khi cho rằng chủ ngữ biểu hiện “sở đề” hay “cái nói đến” còn vị ngữ biểu thị “sở thuyết” hay “thuyết minh cho chủ ngữ” Nguyễn Kim Thản 1964, Lê Xuân Thại 1994. Với cách nhìn này, hướng phân tích theo cấu trúc chủ -vị tiến gần đến hướng phân tích câu theo cấu trúc đề- thuyết. Tuy nhiên ngay cả khi thay đổi cách nhìn về chức năng của cấu trúc chủ -vị, mở rộng hơn ngoại diên của chủ ngữ và bổ sung thêm các chức năng khác như chủ đề, hay khởi ngữ…cách phân tích câu theo quan hệ chủ vị cũng chỉ bao quát được một phạm vi rất hạn hẹp các kiểu câu của tiếng Việt mà theo đánh giá của một số tác giả là khoảng 25% , thậm chí chỉ khoảng 15% Tiểu ban tiếng Việt nhà trường, Hội Ngôn ngữ học TpHCM, 2004. Hướng phân tích theo quan hệ đề - thuyết. Hướng phân tích câu theo cấu trúc đề-thuyết xuất hiện trong Việt ngữ học trước hết do sự bất cập của hướng phân tích theo cấu trúc chủ -vị. Khi chuyển từ việc coi kết cấu chủ ngữ - vị ngữ có chức năng biểu thị sự tình sang chức năng truyền tải thông điệp biểu thị một phán đoán hay nhận định, nhiều người nhà nghiên cứu theo quan điểm chủ -vị đã thấy rằng bên cạnh các kết cấu chủ -vị có chủ ngữ trùng với chủ thể tâm lí ví dụ “Giáp biết chuyện ấy”. “Họ giỏi lắm” cũng có những trường hợp, chủ ngữ không trùng với chủ thể tâm lý, ví dụ “Cái gì Giáp cũng biết”, “Bộ đội họ giỏi lắm”, “Miệng ông ông nói, đình làng ông ngồi…. Để phân biệt các chủ thể tâm lí không trùng với chủ ngữ chủ thể ngữ pháp, các nhà nghiên cứu đã đề xuất thêm một thành phần câu mới là “chủ đề” Trương Văn Chình- Nguyễn Hiến Lê 1964 536, “khởi ngữ” Nguyễn Kim Thản 1964, “đề ngữ” Diệp Quang Ban 1984. Như vậy, thực chất việc đưa thêm các khái niệm “chủ đề”, “đề ngữ” hay “khởi ngữ”…chỉ là một giải pháp tình thế nhằm khắc phục sự chênh nhau giữa chủ ngữ ngữ pháp và chủ thể tâm lí, và điều đó cũng cho thấy sự hạn chế của kết cấu chủ -vị nói chung và khái niệm chủ ngữ nói riêng. Để tránh những bất cập này của cách tiếp cận chủ -vị, với quan niệm coi câu là “một ngữ đoạn kết thúc, mang một thông báo hoàn chỉnh”, Lưu Vân Lăng 1970, 1986 đã đề xuất cách phân tích câu theo cấu trúc đề - thuyết thay cho cấu trúc chủ -vị, trong đó khái niệm đề được mở rộng, bao gồm không chỉ các chủ ngữ ngữ pháp điển mẫu trùng với chủ thể lôgic và chủ thể tâm lí mà cả một số trường hợp được các tác giả khác coi là khởi ngữ hay đề ngữ Cái gì, anh giáp cũng biết thậm chí là trạng ngữ Xã bên, lúa tốt. Cấu trúc đề - thuyết được Lưu Vân Lăng phân biệt với cấu trúc thông tin cũ –mới của Lí thuyết phân đoạn thực tại và được áp dụng không chỉ cho câu mà cho cả cú. Lưu Vân Lăng 1970/1998 17. Chúng tôi sẽ quay trở lại vấn đề này ở phần sau khi đề cập đến mối quan hệ giữa cấu trúc chủ vị và cấu trúc đề- thuyết. Các tác giả cuốn Ngữ pháp tiếng Việt UBKHXH 1983 cũng cho rằng nòng cốt cú pháp của câu đơn được xây dựng trên quan hệ đề- thuyết, bởi vì - Xét về quá trình tư duy, quan hệ đề thuyết …biểu thị một phán đoán, một sự phản ánh tương đối của thực tại nhất định vào nhận thức. Phán đoán gồm 2 yếu tố là sự vật, hiện tượng hay chủ đề và điều thấy được, biết được nhận thức về chủ đề. - Xét về quá trình thông báo, quan hệ đề -thuyết…biểu thị một thông báo trong một hoàn cảnh giao tiếp nhất định. Thông báo cũng bao gồm hai yếu tố yếu tố thứ nhất chỉ ra người nói “nói về gì” và yếu tố thứ hai chỉ ra người nói “nói gì”. UBKHXH Việt Nam 1983/2002209 Tuy nhiên khi áp dụng vào thực tế phân tích câu thì các tác giả lại không đưa những trường hợp Lưu Vân Lăng cho là đề ngữ vào phần đề mà coi nó là thành phần tình huống ví dụ, Xã bên, lúa tốt. - tr 239, hoặc thành phần khởi ý ví dụ, Quyển sách này, tôi chỉ thấy bán ở đây. - Vì vậy, cấu trúc đề - thuyết ở Ngữ pháp tiếng Việt của UBKHXH Việt Nam không khác nhiều lắm với cấu trúc chủ -vị theo quan niệm của nhiều tác giả. Cao Xuân Hạo là người đầu tiên áp dụng một cách triệt để quan hệ đề - thuyết vào việc phân tích cấu trúc cú pháp câu tiếng Việt. Trong công trình “Tiếng Việt – Sơ thảo Ngữ pháp chức năng” 1991 Cao Xuân Hạo cho rằng cần phải thay cách phân tích câu tiếng Việt theo quan hệ chủ vị mà theo tác giả là đã được bê nguyên xi từ tiếng Pháp vào tiếng Việt do tư tưởng “dĩ Âu vi trung” bằng cách phân tích theo quan hệ đề- thuyết cho phù hợp với đặc điểm loại hình của tiếng Việt là một ngôn ngữ thiên chủ đề. Theo đó, câu với tư cách là đơn vị “thông báo một mệnh đề” hay “phản ánh một nhận định” được cấu trúc hóa thành hai phần đề và thuyết, trong đó “đề là điểm xuất phát, là cái cơ sở, cái điểm tựa làm bàn đạp cho đà triển khai của câu” ở phần thuyết Cao Xuân Hạo 1991/2004 50-51. Với cách hiểu này, trong cấu trúc đề - thuyết của Cao Xuân Hạo, phần đề không chỉ bao gồm các chủ ngữ điển mẫu Tôi xem phim này rồi, chủ đề hay khởi ngữ ví dụ, Tôi tên là Nam, Phim này tôi xem rồi mà cả những trường hợp các tác giả khác coi là trạng ngữ Mai, mẹ về. Ở đây mọi người đều làm việc, tình thái ngữ Theo tôi, Nam thế nào cũng trúng cử, thành phần câu ghép Cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy hoặc bị gạt sang một bên như những trường hợp ngoại lệ Chó treo, mèo đậy. Cần tái, cải nhừ vv. Cách phân tích theo quan hệ đề - thuyết như vậy được Cao Xuân Hạo không chỉ áp dụng cho câu mà cả ngữ đoạn dưới câu là tiểu cú. Mặc dù còn nhiều tranh cãi nhưng không thể không thừa nhận rằng cách phân tích cấu trúc câu theo quan hệ chủ -vị của Cao Xuân Hạo đã giải quyết được hàng loạt các trường hợp bế tắc nếu phân tích theo quan hệ chủ vị theo đánh giá của những người ủng hộ quan niệm này thì các câu kiểu này có thể lên tới 86% và mở ra khả năng ứng dụng vào việc dạy viết và chữa lỗi câu tiếng Việt cho người Việt và người nước ngoài theo một cách tiếp cận mới. Tuy nhiên, chấp nhận cách phân tích cú/câu tiếng Việt theo cấu trúc đề -thuyết nhưng lại loại bỏ hoàn toàn cấu trúc chủ -vị và các chức năng cú pháp truyền thống như chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ…ra khỏi hệ thống ngữ pháp tiếng Việt chưa hẳn là một giải pháp thỏa đáng, đặc biệt khi xem xét vấn đề dưới góc độ loại hình và phổ niệm ngôn ngữ. Bởi vì, thứ nhất, giải pháp này vạch ra một ranh giới quá rạch ròi, thậm chí gần như đối lập giữa tiếng Việt và các ngôn ngữ được coi là chỉ có chủ đề mà không có chủ ngữ với các ngôn ngữ chỉ có chủ ngữ mà không có chủ đề, một sự đối lập mà ngay cả các tác giả đề xuất phân biệt các loại hình “thiên chủ ngữ” và “thiên chủ đề” cũng chưa nói tới. Thứ hai, nếu xem xét cấu trúc chủ -vị dưới góc độ lí thuyết điển mẫu, chúng ta có thể thấy rằng có hàng loạt các câu tiếng Việt tương ứng với câu có cấu trúc chủ -vị trong các ngôn ngữ khác, mặc dù giữa chúng có thể khác nhau về hình thức đánh dấu hay trật tự từ, và đó chính là cơ sở cho các nghiên cứu về loại hình học hình thái cách phân biệt các ngôn ngữ đối cách với các ngôn ngữ khiển cách, tuyệt cách, tam phân hay trung hòa hay loại hình trật tự từ phân biệt các ngôn ngữ SVO, SOV, VOS, mà tiếng Việt không phải là một ngoại lệ về mặt loại hình. Thứ ba, nếu đối lập một cách triệt để cách phân tích cú pháp câu tiếng Việt với câu của các ngôn ngữ khác sẽ tạo ra những khó khăn nhất định về mặt ứng dụng, đặc biệt là trong việc dạy và học ngoại ngữ cũng như dạy và học tiếng Việt như một ngoại ngữ. Chính vì vậy chúng tôi cho rằng cần phải tìm một giải pháp mô tả cấu trúc cú pháp của cú và câu tiếng Việt trong đó có sự kế thừa cả hai hướng phân tích theo quan hệ chủ -vị và phân tích theo quan hệ đề - thuyết. Do khuôn khổ bài viết có hạn, duới đây chúng tôi chỉ trình bày những suy nghĩ bước đầu của giải pháp này. 2. Thử tìm một giải pháp cho việc phân tích cấu trúc cú pháp của cú/câu tiếng Việt Cơ sở của giải pháp. Thực ra các giải pháp kết hợp cả hai hướng tiếp cận chủ - vị và đề - thuyết để phân tích cấu trúc cú pháp của cú và câu tiếng Việt cũng đã được một số nhà ngôn ngữ học đề cập đến. Trần Ngọc Thêm 1985, chẳng hạn, đã đưa ra giải pháp phân tích cấu trúc câu theo quan hệ đề - thuyết trong đó cấu trúc chủ - vị đóng vai trò như các cấu trúc nòng cốt bộ phận của cấu trúc đề - thuyết. Tác giả đã xác định 4 kiểu cấu trúc đề - thuyết nòng cốt là nòng cốt đặc trưng C→V đ, nòng cốt quan hệ C→Vq − B, nòng cốt tồn tại Tr →Vt − B, và nòng cốt qua lại xV → y V’, trong đó có 2 nòng cốt chủ vị hoàn chỉnh nòng cốt đặc trưng và nòng cốt quan hệ và một nòng cốt chủ vị không có chủ ngữ nòng cốt tồn tại. Tuy nhiên, giải pháp này chỉ khác với cách phân tích theo quan điểm chủ -vị chỉ ở chỗ cấu trúc qua lại được coi như là câu đơn có một nòng cốt đề-thuyết chứ không phải là một câu ghép với hai nòng cốt chủ vị theo quan điểm truyền thống. Vì vậy, trên thực tế, giải pháp này chưa tiến xa hơn cách tiếp cận chủ - vị được bao nhiêu, đặc biệt là với những kiểu câu không phân tích được theo quan hệ chủ vị mà Cao Xuân Hạo và các cộng sự đã chỉ ra. Một cố gắng khác nhằm kết hợp hai cách phân tích chủ -vị và đề -thuyết được trình bày trong công trình “Ngữ pháp tiếng Việt” mới xuất bản gần đây của Diệp Quang Ban 2005. Trong công trình này, Diệp Quang Ban đã áp dụng mô hình ngữ pháp chức năng của Halliday vào ngữ liệu tiếng Việt, theo đó cấu trúc câu tiếng Việt được phân tích thành 4 kiểu cấu trúc gồm 3 kiểu cấu trúc thực hiện chức năng cấu trúc nghĩa biểu hiện với vị tố và các tham thể; cấu trúc thức với biểu thức thức và phần dư, và cấu trúc đề - thuyết với hai thành tố đề và thuyết và cấu trúc cú pháp gồm chủ ngữ, vị tố và các loại bổ ngữ, đề ngữ và gia ngữ; Ứng với các kiểu cấu trúc cú pháp, cầu trúc nghĩa biểu hiện và cấu trúc đề thuyết, theo cách nhìn của Halliday, tác giả phân biệt ba kiểu chủ thể có mặt trong câu chủ thể ngữ pháp chủ ngữ, chủ thể lôgich và chủ thế tâm lí Diệp Quang Ban 2005 50-51. Chúng tôi cho rằng việc phân biệt các bình diện phân tích cấu trúc theo cách của Halliday là hoàn toàn cần thiết để tìm hiểu tính đa diện của cấu trúc câu, tuy nhiên sử dụng theo lối lồng ghép cả ba bình diện diện với 4 kiểu cấu trúc để phân tích cấu trúc câu tiếng Việt như Diệp Quang Ban đã tiến hành chỉ làm cho việc phân tích câu thêm rắc rối. Mặt khác như sẽ chỉ ra dưới đây, chức năng chủ yếu của câu không phải là biểu hiện sự tình mà là thông báo, vì vậy tiến hành phân tích cấu trúc nghĩa biểu hiện với vị tố và các tham thể và hình thức bề mặt tương ứng của nó cấu trúc cú pháp gồm vị tố và các chức năng cú pháp ở cấp độ câu chưa hẳn là một giải pháp đúng đắn. Vậy, có thể lựa chọn một giải pháp như thế nào cho việc phân tích cấu trúc cú và câu tiếng Việt dựa trên sự kết hợp hai cách tiếp cận chủ - vị và đề - thuyết. Từ các cách tiếp cận trên đây, chúng tôi thấy rằng trong việc phân tích cấu trúc cú pháp của câu tiếng Việt đã có một số sự nhầm lẫn hoặc mơ hồ mà nếu không làm sáng tỏ thì khó có thể có được một giải pháp phân tích cấu trúc câu hợp lí. Trước hết đó là sự nhầm lẫn trong việc xác định chức năng và cấu trúc cú pháp của hai đơn vị ngữ pháp hữu quan là câu và cú mệnh đề ngữ pháp. Cho đến nay, hầu như tất cả các nhà nghiên cứu, dù theo quan điểm chủ -vị hay đề thuyết, đều cho rằng cú và câu có chức năng và cấu trúc cú pháp giống nhau, sự khác biệt chỉ nằm ở chỗ câu thì hoàn toàn độc lập là một cú độc lập hoặc do nhiều cú kết hợp lại với nhau, còn cú có thể độc lập câu đơn hoặc không độc lập bộ phận của câu ghép. Vì vậy, thậm chí nhiều tác giả cho rằng việc phân biệt cú và câu là không cần thiết, nên đã thay thế cú bằng thuật ngữ “nòng cốt” để phân biệt câu đơn câu có một nòng cốt và câu ghép câu có hai nòng cốt UBKHXH 1983, Trần Ngọc Thêm 1985, Nguyễn Minh Thuyết Nguyễn Văn Hiệp 1998, hoặc đồng nhất cú với câu Diệp Quang Ban 2005. Có lẽ chỉ có Lưu Vân Lăng và Cao Xuân Hạo chú ý đến sự khác biệt giữa cú và câu. Theo Lưu Vân Lăng câu và cú giống nhau ở chỗ đều là những ngữ đoạn thuyết ngữ tính phân biệt với ngữ không có thuyết ngữ tính có cấu trúc đề - thuyết nhưng khác nhau về chức năng cú là một “ngữ đoạn chưa kết thúc”, mới “ít nhiều có chức năng thông báo”, còn câu là một “ngữ đoạn kết thúc, mang một nội dung thông báo hoàn chỉnh” Lưu Vân Lăng 1975/1998 16-18. Cao Xuân Hạo cũng cho rằng cú có cấu trúc đề - thuyết như câu nhưng khác câu “ ở chỗ nó không phản ánh một hành động nhận định, được thực hiện ngay khi phát ngôn để đưa ra một mệnh đề, mà biểu thị một cái gì được coi như có sẵn…” Cao Xuân Hạo 1991/2004 42. Như vậy, cả Lưu Vân Lăng và Cao Xuân Hạo đều có chú ý đến sự khác biệt về chức năng của cú và câu nhưng lại không phân biệt chúng về mặt cấu trúc khi cho rằng cả hai đơn vị đều có cấu trúc đề- thuyết. Xuất phát từ quan điểm cho rằng các đơn vị ngôn ngữ khác nhau ở chức năng, và cấu trúc của một đơn vị bao giờ cũng được xây dựng để thực hiện chức năng của nó, chúng tôi thấy rằng để phân tích cấu trúc cú pháp của câu và cú, cần xét xem chúng giống nhau hay khác nhau về mặt chức năng. Hiện nay, các nhà Việt ngữ học có nhiều cách hiểu khác nhau về chức năng của câu. Một số cho rằng câu có chức năng chủ yếu là biểu hiện sự tình Trần Trọng Kim 1936, Trương Văn Chình- Nguyễn Hiến Lê 1964, một số khác cho rằng chức năng chủ yếu của câu là biểu hiện một tư tưởng trọn vẹn, một phán đoán hay một thông báo Nguyễn Kim Thản 1964, Diệp Quang Ban 1980/1987, UBKHXH 1983, Lê Xuân Thại 1994. Gần đây, dưới ảnh hưởng của cách tiếp cận chức năng, nhiều nhà nghiên cứu nói đến tính đa chức năng, đa bình diện của câu, theo đó câu có cả chức năng biểu hiện và chức năng thông báo liên nhân hay trao đổi. Về chức năng của cú, ngoài các ý kiến của Lưu Vân Lăng và Cao Xuân Hạo đã đề cập ở trên, các nhà nghiên cứu khác có đề cập đến khái niệm này đều mặc nhiên coi nó giống với câu. Chúng tôi cho rằng với tư cách là 2 đơn vị ngữ pháp cú và câu có chức năng khác nhau về cơ bản. Câu là đơn vị ngôn ngữ được người nói tạo lập trong các hoàn cảnh giao tiếp, vì vậy chức năng quan trọng nhất của câu là chức năng truyền đạt một thông báo chứ không phải là chức năng biểu hiện phán đoán hay biểu hiện sự tình. Khi người ta nói một câu là người ta đưa ra một thông báo thông điệp thông báo đó có thể là một phán đoán hay nhận định trong câu tường thuật Trời mưa/Trời không mưa, một câu hỏi trong câu nghi vấn Trời có mưa không?, một lời cầu khiến trong câu cầu khiến Trời mưa đi! hay cảm thán trong câu cảm thán Trời mưa to quá!, Cần phải phân biệt chức năng thông báo của câu nói chung với chức năng biểu hiện mệnh đề lôgich phán đoán hay nhận định của câu tường thuật. Chúng ta biết rằng, tiêu chí để phân biệt một câu có biểu hiện mệnh đề hay không là dựa vào giá trị chân ngụy. Theo đó, chỉ có câu tường thuật phi ngôn hành mới có chức năng biểu hiện mệnh đề, còn các kiểu câu khác câu tường thuật ngôn hành, câu hỏi, câu cầu khiến, câu cảm thán chỉ có chức năng thông báo mà không có chức năng biểu hiện mệnh đề mặc dù ý nghĩa của chúng có liên quan đến nội dung mệnh đề. Vì vậy, nói câu có chức năng biểu hiện thông báo là đúng và như vậy là bao hàm cả chức năng biểu hiện mệnh đề của câu tường thuật, còn nói câu có chức năng biểu hiện mệnh đề là không ổn vì trên thực tế đó chỉ là chức năng thông báo riêng của một kiểu câu câu tường thuật mà thôi. Vì vậy. khi nói đến ý nghĩa của câu trước hết phải nói đến ý nghĩa thông báo chứ không phải chỉ là nội dung mệnh đề. Ý nghĩa này luôn gắn với mục đích thông báo của người nói và mối quan hệ giữa người nói và người nghe. Mặt khác, chức năng cơ bản của câu cũng không phải là biểu hiện sự tình. Người nói nói ra một câu ở một tình huống nào đấy không phải để mô tả hay phản ánh về sự tình ấy vào tư duy mà là đưa ra một thông điệp về sự tình ấy cho người nghe khẳng định, phủ định, hỏi, vv. Chức năng biểu hiện theo chúng tôi là của cú. Khác với câu, cú là đơn vị được tạo lập không phải để thông báo mà là để biểu hiện các sự tình, gắn với chức năng biểu hiện của ngôn ngữ. Xét về mặt chức năng, có thể nói cú giống với ngữ hơn là với câu câu có chức năng thông báo còn cú và ngữ chỉ có chức năng biểu hiện. Điểm khác biệt giữa cú và ngữ chỉ là ở chỗ cú biểu hiện các sự tình của thế giới ngoại ngôn và cấu trúc hóa nó trong cấu trúc nghĩa biểu hiện với vị tố trung tâm và các tham thể theo cách tri nhận của người bản ngữ, còn ngữ chỉ biểu hiện các phân đoạn của sự tình với tư cách là thành tố vị tố và các tham thể của cấu trúc nghĩa biểu hiện. Đó chính là lí do vì sao một số tác giả cho rằng cú không có được “chức năng thông báo” hay “phản ánh một nhận định đầy đủ như câu” Lưu Vân Lăng 1975, Cao Xuân Hạo 1991 đã dẫn. Với tư cách là đơn vị cú pháp có chức năng biểu hiện sự tình, cấu trúc nghĩa biểu hiện và cấu trúc cú pháp của cú được tổ chức phụ thuộc vào thế giới ngoại ngôn khách quan và phương thức tri nhận của một cộng đồng ngôn ngữ chủ quan hơn là phụ thuộc vào người nói và mối quan hệ giữa người nói và người nghe. Vì vậy, phân tích ý nghĩa biểu hiện và cấu trúc nghĩa biểu hiện với tư cách là sự phản ánh các sự tình của thế giới ngoại ngôn vào ngôn ngữ qua tư duy của người bản ngữ, nên bắt đầu từ cú chứ không phải từ câu. Thực tế nhiều nhà nghiên cứu coi nghĩa biểu hiện là của câu và phân tích nghĩa biểu hiện ở cấp độ câu, nhưng trong thực tế họ chỉ phân tích nghĩa biểu hiện của các câu tường thuật điển mẫu, tức là các câu có ý nghĩa và hình thức gần với cú nhất, mà bỏ qua việc phân tích cấu trúc nghĩa biểu hiện của các kiểu câu hỏi, cầu khiến hay cảm thán vì ở những kiểu câu này các sự tình được phản ánh rất mờ nhạt, phiến diện, ở câu hỏi, nhiều tham thể không được xác định và không được biểu hiện bằng một biểu thức qui chiếu, ví dụ Ai nói đấy?, Anh làm gì?; ở câu cấu khiến vai chủ thế loại trừ ngôi thứ nhất, ngôi thứ ba hoặc bất động vật thậm chí là không hề có ví dụ trong các câu cảm thán Ái. Ối. Vì vậy chúng tôi cho rằng ý nghĩa biểu hiện gắn với chức năng biểu hiện là của cú. Cú chỉ có chức năng thông báo và ý nghĩa thông báo khi được sử dụng như một câu và được tổ chức về mặt cấu trúc như một câu, và khi đó tất nhiên cú đã trở thành câu và vì vậy phải ứng xử với nó như câu. Từ sự phân biệt chức năng của cú và câu như vậy chúng tôi đề xuất đề xuất giải pháp phân tích cấu trúc cú pháp của cú và câu tiếng Việt như sẽ trình bày dưới đây. Nội dung của giải pháp Phân tích cấu trúc của cú tiếng Việt. Xét theo quan điểm cấu trúc-chức năng, với tư cách là đơn vị ngữ pháp có chức năng biểu hiện sự tình, cấu trúc cú pháp của cú phải được xác lập phù hợp với chức năng đó. Vậy cấu trúc cú pháp đó của cú là gì đề- thuyết hay chủ -vị. Cấu trúc đề -thuyết rõ ràng không phù hợp với chức năng này bởi vì nó được xác lập theo quan điểm thông báo đề là “cái nói đến” hay là “xuất phát điểm” của câu, còn thuyết là bộ phận “nói về” hay “mang các thông tin” về đề. Còn cấu trúc chủ -vị thì sao? Các công trình nghiên cứu về loại hình học và phổ niệm ngôn ngữ cho thấy, việc mã hóa cấu trúc nghĩa biểu hiện của cú về mặt cú pháp ở các ngôn ngữ có những điểm tương đồng và khác biệt. Điểm tương đồng đã được nhiều nhà nghiên cứu khái quát hóa thành các phổ niệm là ở tất cả các ngôn ngữ, vị tố thường được mã hóa thành các vị ngữ với trung tâm là vị từ, các tham thể thường được mã hóa qua các chức năng cú pháp như chủ ngữ, bổ ngữ hay trạng ngữ được biểu hiện bằng danh ngữ, giới ngữ hay cú. Xét mối quan hệ giữa các chức năng cú pháp là chủ ngữ CN và bổ ngữ BN với các vai nghĩa của các tham thể, người ta nhận thấy có một xu hướng đồ chiếu mapping như sau Tác thể > Đối thể > Tiếp thể > Lợi thể > Công cụ > Vị trí > Thời gian CN x > x > x > x > x > x > x BN x > x > x > x > x > x Dik 1981 109 Thang độ trên cho thấy, các ngôn ngữ có xu hướng mã hóa tác thể bằng chức năng chủ ngữ, và mã hóa đối thể bằng chức năng bổ ngữ. Nói cách khác cấu trúc chủ - vị có chức năng mã hóa cấu trúc nghĩa biểu hiện chứ không phải là biểu hiện một thông báo như cấu trúc đề-thuyết. Tuy nhiên, có sự khác biệt về phương thức mã hóa cấu trúc biểu hiện bằng cấu trúc chủ -vị ở các ngôn ngữ, biểu hiện ít nhất là ở hai phương diện liên kết hình thái cú pháp morphosyntactic alignment và trật tự từ word order. Về mặt hình thái-cú pháp, trên cơ sở nghiên cứu hình thức biểu hiện của ba chức năng cú pháp chính là A chủ ngữ tác thể, ví dụ Tôi đọc sách, S chủ ngữ nghiệm thể, ví dụ Tôi ngã và O bổ ngữ đối thể/bị thể, ví dụ Tôi đọc sách, các nhà loại hình học đã chỉ ra rằng cách thức mã hóa các chức năng cú pháp để biểu thị các vai nghĩa là khác nhau ở các ngôn ngữ, trên cơ sở đó đã phân biệt 6 loại hình liên kết hình thái-cú pháp là đối cách A=S≠O, tác cách A≠S=O, chủ cách A=O≠ S, tam phân A≠S≠O và trung hòa A=S=O. Về mặt trật tự từ, những khác biệt về trật tự từ của các thành tố cú pháp trong cấu trúc chủ -vị S, V, O là cơ sở để các nhà loại hình học phân loại các loại hình trật tự từ khác nhau như SVO, SOV hay OVS… Comrie 1989, Song Jung 2001. Quay trở lại với cú tiếng Việt, chúng tôi cho rằng cũng như ở các ngôn ngữ khác, cú tiếng Việt có cấu trúc cú pháp là cấu trúc chủ -vị có chức năng mã hóa cấu trúc nghĩa biểu hiện để phản ánh các sự tình ngoại ngôn. Cấu trúc cú pháp nòng cốt của cú có thể được mô tả bằng ba chức năng ngữ pháp cơ bản là chủ ngữ CN, vị ngữ VN và bổ ngữ BN, trong đó vị ngữ là trung tâm, chủ ngữ là thành tố bắt buộc thứ nhất có ở mọi kiểu cú và bổ ngữ là thành tố bắt buộc thứ hai chỉ có ở một số kiểu cú. Cần lưu ý khái niệm bổ ngữ ở đây được dùng như là thành tố bắt buộc thứ hai của vị ngữ về mặt cú pháp nên nó không ràng buộc với một vai nghĩa nào, mặc dù bổ ngữ điển mẫu thường có vai nghĩa là đối thể/bị thể. Các cú điển mẫu không đánh dấu là các cú có các nòng cốt là cấu trúc chủ vị như sau 1. CN – VN 1a. CN – VN ĐT Nó chạy 1b. CN – VN TT Trời đẹp 1c. CN - VN DT Nam 20 tuổi 2. CN – VN – BN 2a. CN – VN ĐT – BN Nó đọc sách 2b. CN – CN ĐT – BN1 – BN2 Mẹ cho nó tiền 2c. CN – VN là - BN Nam là sinh viên 3. BN – VN – CN 3a. BN – VN ĐT – CN Trong túi có tiền 3b. BN – VN là – CN Phía trước là núi Các cú điển mẫu này có thể còn tiếp tục được phân chia thành thành nhiều tiểu loại khác nhau dựa trên sự khác biệt về nghĩa biểu hiện và hình thức của các thành tố cú pháp. Khi tham gia vào câu, dưới ảnh hưởng của việc tổ chức câu, các cú điển mẫu có thể thay đổi theo nhiều hướng khác nhau như lược bớt các thành tố Tôi đọc sách > đọc sách > sách, mở rộng bằng các phụ ngữ Hôm qua, tôi đọc sách trong thư viện, thay đổi trật tự các thành tố Tôi đọc quyển sách này > Quyến sách này tôi đọc rồi, vv. Lúc đó, cú phải được phân tích từ góc độ chức năng và cấu trúc câu. Phân tích cấu trúc cú pháp của câu tiếng Việt Khác với cú, câu là đơn vị có chức năng thông báo, tức là biểu hiện một thông điệp chứ không phải biểu hiện một phán đoán, do đó cấu trúc cú pháp của câu cũng được xác lập phù hợp với chức năng này. Theo đó, chúng tôi tán thành quan điểm cho rằng cấu trúc cú pháp của câu được tổ chức dựa trên cấu trúc đề - thuyết, trong đó đề là bộ phận biểu thị “cái được nói đến” hay là “xuất phát điểm” của thông điệp chứ không phải chỉ sở đề của phán đoán/mệnh đề lôgich và thuyết là bộ phận mang thông tin mà người nói muốn nói về đề chứ không chỉ là sở thuyết của phán đoán/mệnh đề lôgich. Cách phân tích đề-thuyết như vậy áo dụng cho tất cả các kiểu câu tường thuật, nghi vấn, cầu khiến, cảm thán chứ không phải chỉ cho riêng cho câu tường thuật như nhiều nhà nghiên cứu vẫn mặc định. Các vấn đề cụ thể khác như đặc điểm của đề và thuyết, phương tiện đánh dấu quan hệ đề - thuyết, cách thức xác định ranh giới đề- thuyết, các kiểu cấu trúc đề - thuyết của câu tiếng Việt, về cơ bản chúng tôi tán thành các kiến giải của Cao Xuân Hạo trong công trình Tiếng Việt – Sơ thảo ngữ pháp chức năng 1991/2004.những ý kiến khác biệt chúng tôi sẽ trình bày trong một dịp khác. Có một câu hỏi đặt ra ở đây là câu có quan hệ như thế nào với cú? Ở trên chúng tôi đã nói rằng cú có chức năng biểu hiện sự tình và có cấu trúc cú pháp tương ứng với chức năng đó là cấu trúc chủ -vị. Đó là chúng ta xem xét cú như một ngữ đoạn tĩnh trong sự độc lập tương đối với câu. Tuy nhiên trong thực tế giao tiếp, khi người nói sử dụng các câu có nội dung thông báo liên quan đến một sự tình nhất định do cú biểu thị chẳng hạn đưa ra một nhận định hay một câu hỏi về một sự tình, các cú điển mẫu có thể được tổ chức lại theo mục đích phát ngôn của người nói. Chẳng hạn, một cú điển mẫu CN – VN – BN như Tôi uống cà phê” mô tả một sự tình “Tôi Tác thể uống V tác động, cơm Bị thể, tùy theo điểm nhìn để lựa chọn điểm xuất phát của người nói, có thể được tổ chức thành các câu có cấu trúc đề thuyết khác nhau “Tôi//uống cà phê rồi”, “Tôi//thì uống cà phê rồi” hoặc “Cà phê// thì tôi uống rồi”, hoặc thêm vào một đề ngữ để biến cả cú thành một thuyết ngữ “Sáng nay//, tôi uống cà phê rồi”. Như vậy cấu trúc chủ vị và cấu trúc đề- thuyết là khác nhau cấu trúc chủ -vị là của cú gắn với chức năng biểu hiện, còn cấu trúc đề- thuyết là của câu, gắn với chức năng thông báo. Cũng cần nói thêm rằng ngay cả khi cú chưa được phát triển thành một câu độc lập nhưng đã tham gia vào câu như một thành tố cú pháp làm thành phần câu đơn hay bộ phận của câu ghép thì cấu trúc cú pháp của cú cũng đã bắt đầu chuyển hóa từ quan hệ chủ -vị sang quan hệ đề -thuyết bởi vì lúc đó cú không phải được dùng với chức năng biểu hiện nữa mà bắt đầu được dùng với chức năng thông báo ví dụ Trời mưa cú điển mẫu > Trời thì mưa mà vẫn phải đi làm. Trời mà mưa thì tôi không đi làm. Lúc đó cú có tính chất nửa cú, nửa câu nên có thể gọi là tiểu cú hoặc bán cú.. Tóm lại, khác với hai quan niệm phân tích cấu trúc chủ -vị và cấu trúc đề -thuyết đối lập nhau, xuất phát từ quan điểm cấu trúc-chức năng, chúng tôi cho rằng cần phân biệt trong tiếng Việt hai kiểu cấu trúc cú pháp của hai đơn vị khác biệt nhau về mặt cấu trúc- chức năng Cấu trúc chủ - vị là cấu trúc của cú hay mệnh đề clause, đơn vị cú pháp có chức năng cơ bản là biểu hiện các sự tình, gắn với chức năng biểu hiện của ngôn ngữ. Còn cấu trúc đề- thuyết là cấu trúc cú pháp của câu, đơn vị cú pháp có chức năng cơ bản là truyền đạt một thông báo, gắn liền với chức năng giao tiếp của ngôn ngữ. Hai kiểu cấu trúc này nên được coi là bổ sung cho nhau chứ không loại trừ nhau trong hệ thống cú pháp tiếng Việt. Theo hướng tiếp cận này, việc phân tích cú pháp tiếng Việt đáp ứng được sự thỏa đáng trên cả hai phương diện loại hình và phổ niệm ngôn ngữ. Tài liệu tham khảo 1. Bùi Đức Tịnh. Văn phạm Việt Nam. Sài Gòn, 1952. 2. Cao Xuân Hạo. Tiếng Việt - Sơ thảo ngữ pháp chức năng. Nxb KHXH, Hà Nội 1991 Nxb Giáo dục tái bản 2004. 3. Cao Xuân Hạo. Câu và kết cấu chủ-vị. T/c Ngôn ngữ, tr. 1-20. 4. Dik Funtional Grammar. Foris Publications. Đordrecht – Holland/ Cinnaminson –USA, 1981. 5. Diệp Quang Ban. Cấu tạo câu đơn tiếng Việt. Trường ĐHSP Hà Nội, 1984. 6. Comrie B. Language universal and linguistic typology. Basil Blackwell, 1981/1989. 7. Croft, W. Typology and universals, Cambridge University Press, 1990. 8. Diệp Quang Ban . Ngữ pháp tiếng Việt. Nxb Giáo dục, Hà Nội 2005 9. Hoàng Trọng Phiến. Ngữ pháp tiếng Việt câu. Nxb ĐH&THCN, Hà Nội 1990. 10. LêXuân Thại. Câu chủ vị tiếng Việt. Nxb KHXH, Hà Nội,1994. 11. Lê Xuân Thại. Mấy suy nghĩ về quan niệm Đề- Thuyết của GS Cao Xuân Hạo. T/c Ngôn ngữ, tr 71-79. 12. Lưu Vân Lăng. Ngôn ngữ học và tiếng Việt. Nxb KHXH, Hà Nội,1998. 13. Nguyễn Hồng Cổn. Bàn thêm về cấu trúc thông báo của câu tiếng Việt. T/C Ngôn ngữ, 14. Nguyễn Kim Thản Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Nxb KHXH, Hà Nội 1964. 15. Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp. Lý thuyết thành phần câu và thành phần câu tiếng Việt. Nxb ĐạHQG Hà Nội, 1998. 16. Phan Khôi. Việt ngữ nghiên cứu. Hà Nội, 1955 Nxb Đà Nẵng tái bản 1997. 17. Song Jung. Linguistics Typology- Morphology and Syntax. Pearson Education Limited, 2001. 18. Thompson A Vietnamese Grammar. University of Washington Press. Seatlte and London, 1965. 19. Tiểu ban Tiếng Việt trong nhà trường Hội Ngôn ngữ học Tp HCM. Ngữ pháp chức năng, cấu trúc đề thuyết và ngữ pháp tiếng Việt. T/c Ngôn ngữ, tr 62-70 . 20. Trần Ngọc Thêm. Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt. Nxb ĐH &THCN, Hà Nội, 1985. 21. Trần Trọng Kim. Việt Nam văn phạm. Hội Khai trí Tiến đức, Hà Nội 1936 Nxb tái bản 2007. 22. Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê. Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam. Đại học Huế, Huế 1963. 23. UBKHXHVN. Ngữ pháp tiếng Việt. Nxb KHXH 1983 tái bản 2002. * Bài đã đăng Tạp chí Ngôn ngữ số 2, 2009
YOMEDIA Giúp vs cần gấp bây h lun mn ơi. Câu I 2đ Đọc đoạn văn “Tôi lắng nghe tiếng hai cây phong rì rào, tim đập rộn ràng vì thảng thốt và vui sướng, rồi trong tiếng xào xạc không ngớt ấy, tôi cố tình hình dung ra những miền xa lạ kia.1 Thuở ấy có một điều tôi chưa hề nghĩ đến ai là người trồng hai cây phong trên đồi này? 2 Người vô danh ấy đã ước mơ gì, đã nói những gì khi vùi hai gốc cây xuống đất, người ấy đã áp ủ những niềm hi vọng gì khi vun xới chúng nơi đây, trên đỉnh đồi cao này? 3. Hai cây phong – Ai-ma-Tốp Thực hiện các yêu cầu sau 1. Phân tích cấu tạo ngữ pháp câu 1 rồi gọi tên. 2. Tìm các từ tượng thanh có trong đoạn văn. 3. Xác định các phương thức biểu đạt được kết hợp trong đoạn văn. 4. Trong đoạn văn trên có câu nào là câu nghi vấn. Câu II 2đ Phân tích cái hay của hai câu thơ sau “Giấy đỏ buồn không thắm Mực đọng trong nghiên sầu” Ông đồ – Vũ Đình Liên Câu III 6đ Cảm nhận của em về nhân vật Lão Hạc trong truyện ngắn “Lão Hạc” của Nam Cao. Theo dõi Vi phạm Trả lời 1 Câu I 2đ Đọc đoạn văn “Tôi lắng nghe tiếng hai cây phong rì rào, tim đập rộn ràng vì thảng thốt và vui sướng, rồi trong tiếng xào xạc không ngớt ấy, tôi cố tình hình dung ra những miền xa lạ kia.1 Thuở ấy có một điều tôi chưa hề nghĩ đến ai là người trồng hai cây phong trên đồi này? 2 Người vô danh ấy đã ước mơ gì, đã nói những gì khi vùi hai gốc cây xuống đất, người ấy đã áp ủ những niềm hi vọng gì khi vun xới chúng nơi đây, trên đỉnh đồi cao này? 3. Hai cây phong – Ai-ma-Tốp Thực hiện các yêu cầu sau 1. Phân tích cấu tạo ngữ pháp câu 1 rồi gọi tên. Tôi lắng nghe tiếng hai cây phong rì rào, tim đập rộn ràng vì thảng thốt và vui sướng, rồi trong tiếng xào xạc không ngớt ấy, tôi cố tình hình dung ra những miền xa lạ kia. chữ đậm là CN, nghiêng là VN Gọi tên câu 1 là câu ghép. 2. Các từ tượng thanh có trong đoạn văn rì rào, xào xạc, rộn ràng. 3. các phương thức biểu đạt được kết hợp trong đoạn văn tự sự kết hợp miêu tả, biểu cảm. 4. Trong đoạn văn trên có câu nghi vấn là 2, 3. mấy bài kia mk ngại lm lắm Like 0 Báo cáo sai phạm Nếu bạn hỏi, bạn chỉ thu về một câu trả lời. Nhưng khi bạn suy nghĩ trả lời, bạn sẽ thu về gấp bội! Lưu ý Các trường hợp cố tình spam câu trả lời hoặc bị báo xấu trên 5 lần sẽ bị khóa tài khoản Gửi câu trả lời Hủy ZUNIA9 Các câu hỏi mới Viết bài văn kể về việc làm tốt tốt em đã làm khiến bố mẹ vui lòng Kể về việc làm tốt khiến bố mẹ vui lòng 28/10/2022 1 Trả lời Kể kỉ niệm với con vật nuôi mà em yêu thích Kể kỉ niệm về con vật nuôi mà em yêu thích 29/10/2022 0 Trả lời Kể kỉ niệm với con vật nuôi mà em yêu thích Kể kỉ niệm về con vật nuôi mà em yêu thích 29/10/2022 0 Trả lời Đóng vai nhân vật chị Dậu kể lại cuộc đối đầu giữa Chị Dậu với bọn tay sai trong đoạn trích"Tức nước vỡ bờ" trích "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố _Đóng vai nhân vật kể lại cuộc đối đầu giữa Chị Dậu với bọn tay sai trong đoạn trích"Tức nước vỡ bờ" trích "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố. 01/11/2022 0 Trả lời Dấu hỏi chấm sau câu "Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi... toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta thương... Vợ tôi không ác, nhưng thị khổ quá rồi. Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác đâu? Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ gì đến ai được nữa. Cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp mất. Tôi biết vậy, nên tôi chỉ buồn chứ không nỡ giận." 01/11/2022 0 Trả lời Kể lại cái chết của lão Hạc Giúp mình với mình cần gấp 06/11/2022 0 Trả lời Nêu ý nghĩa văn bản Chiếc bát vỡ Ở thành phố kia có một bác thợ rèn, bác có một người con trai duy nhất. Bác rất quý anh vì từ bé tới lớn anh đều là một con người xuất chúng. Anh vừa đẹp trai vừa giỏi giang, làm bố rất tự hào. Một ngày nọ, không may cậu bị tai nạn xe hơi, tuy giữ được tính mạng nhưng lại bị mất cả hai chân. Tuyệt vọng, hàng ngày anh ngồi ủ rũ trong phòng, im lặng nhìn ra cửa sổ. Một lần, vì quá đau khổ, anh tìm cách tự tử bằng cách uống thuốc ngủ, nhưng may thay cha anh kịp thời phát hiện đưa anh tới bệnh viện, cứu anh qua cơn nguy kịch. Một ngày sau người con trai tỉnh, bác thợ rèn mang đồ ăn tới cho con. Anh con trai tức giận hất đổ khay đồ ăn, rồi chỉ chiếc bát vỡ dưới nền, nói – Cha à, cha cứu con làm gì, cuộc đời con giờ như chiếc bát vỡ kia rồi, mãi mãi không lấy lại được nữa! Người cha già tội nghiệp lặng lẽ xoa đầu người con trai, vỗ về rồi giúp anh nằm nghỉ. Xong ông dọn dẹp những thứ dưới đất, đôi mắt ông đỏ hoe. Một tuần sau anh được đưa trở nhà. Anh thấy trên bàn mình có một chiếc bát sắt. Anh lấy làm lạ lẫm. Xem thêm Người vợ mù – Con có biết nguồn gốc chiếc bát sắt này không, con trai? – Ưm…ý cha là? – Anh ấp úng nói. – Chính là chiếc bát sành hôm trước đó con, cha cho nó vào lò nung, cho thêm sắt nữa, rồi đúc ,thế là nó trở thành chiếc bát sắt này đó con. Ông tiếp – Con à, cuộc đời chúng ta có lúc sẽ như chiếc bát vỡ. Nhưng chỉ cần ta cho thêm khát vọng sống rồi nung trong ý chí, xong đúc trong tình yêu thì mọi chuyện sẽ lại ổn con à. Thì dù có đập, có ném thế nào ta cũng sẽ không bao giờ vỡ nữa đâu con. – Vâng, thưa cha, con đã hiểu. Nói rồi anh vươn người ôm lấy cha mình. Cả hai cha con cùng khóc vì xúc động. 06/11/2022 0 Trả lời Nêu cảm nhận của em về nhân vật chị Dậu trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ Nêu cảm nhận của em về nhân vật chị Dậu trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ 08/11/2022 0 Trả lời Cách nhận biết nội dung đề tài ,bối cảnh,chi tiết tiêu biểu , phương thức biểu đạt - nhận biết nội dung đề tài ,bối cảnh,chi tiết tiêu biểu , phương thức biểu đạt -nhận bt đc các từ tượng hình, từ tượng thanh, trợ từ thán từ và chỉ ra tác dụng 09/11/2022 0 Trả lời Hãy đóng vai Giôn-xi kể lại câu chuyện cô đi thăm cụ Bơ-men ac giúp e với ạ e đang cần gấp 10/11/2022 0 Trả lời Viết một một bài bút ký về thầy cô hoặc mái trường cíu đi màcái này là toi phải làm tập san cho trường á 10/11/2022 0 Trả lời Nội dung chính của ngữ liệu Nhà Nghèo,Tô Hoài từ hình ảnh phía dưới 12/11/2022 0 Trả lời Kể lạI cái chết của Lão Hạc Giúp mình với 13/11/2022 0 Trả lời Kể lại cuộc gặp gỡ người thân sau 1 năm xa cách kể lại cuộc gặp gỡ người thân sau 1 năm xa cách 13/11/2022 0 Trả lời Làm sao để có tình bạn đẹp ? Viết đoạn văn ngắn rút ra bài học từ văn bản trên. Đọc văn bản sau và trả lời những câu hỏi Lỗi lầm và sự biết ơn Hai người bạn cùng đi qua sa mạc. Trong chuyến đi, giữa hai người có xảy ra một cuộc tranh luận và một người nổi nóng không kiềm chế được mình nên đã nặng lời miệt thị người kia. Cảm thấy bị xúc phạm, anh không nói gì, chỉ viết lên cát Hôm nay người bạn tốt nhất của tôi đã làm khác đi những gì tôi nghĩ. Họ đi tiếp, tìm thấy một ốc đảo và quyết định đi bơi. Người bị miệt thị lúc nãy bây giờ bị đuối sức và chìm dần xuống. Người bạn kia đã tìm cách cứu anh. Khi đã lên bờ, anh lấy một miếng kim loại khắc lên đá Hôm nay người bạn tốt nhất của tôi đã cứu sống tôi. Người kia hỏi Tại sao khi tôi xúc phạm anh, anh viết lên cát, còn bây giờ anh lại khắc lên đá? Anh ta trả lời Những điều viết lên cát sẽ mau chóng xóa nhòa theo thời gian, nhưng không ai có thể xóa được những điều tốt đẹp đã được ghi tạc trên đá, trong lòng người. Vậy mỗi chúng ta hãy học cách viết những nỗi đau buồn, thù hận lên cát và khắc ghi những ân nghĩa lên đá. theo Hạt giống tâm hồng Câu 1 Làm sao để có tình bạn đẹp ? câu 2 viết đoạn văn ngắn rút ra bài học từ văn bản trên em đang cần gấp ạ giúp em với ạ 14/11/2022 0 Trả lời Viết đoạn văn nêu cảm nhận về nhân vật được nói đến trong 2 đoạn ngữ liệu sau đây Ngữ liệu 1 Nuôi cháu bảy năm trời, mãi cho đến khi nó đã mười hai, bà cho nó đi làm con nuôi người ta lấy mười đồng. Thì cải mả cho bố nó đã mất tám đồng rồi. Còn hai đồng bà dùng làm vốn đi buôn, kiếm mỗi ngày dăm ba xu lãi nuôi thân. Có chạy xạc cả gấu váy, hết chợ gần đến chợ xa, thì mới kiếm nổi mỗi ngày mấy đồng xu. Sung sướng gì đâu! Ấy thế mà ông trời ông ấy cũng chưa chịu để yên. Năm ngoái đấy, ông ấy còn bắt bà ốm một trận thập tử nhất sinh. Có đồng nào hết sạch. Rồi chết thì không chết nhưng bà lại bị mòn thêm rất nhiều sức lực. Chân tay bà đã bắt đầu run rẩy. Người bà thỉnh thoảng tự nhiên bủn rủn. Đang ngồi mà đứng lên, hai mắt cũng hoa ra. Đêm nằm, xương cốt đau như giần. Đi đã thấy mỏi chân. Như vậy thì còn buôn bán làm sao được? Nghĩ đến nắng gió bà đã sợ. Tuy vậy mà bà vẫn phải ăn. Chao ôi! Nếu người ta không phải ăn thì đời sẽ giản dị biết bao? Thức ăn không bao giờ tự nhiên chạy vào mồm. Có làm thì mới có. Nhưng bây giờ yếu đuối rồi, bà không còn kham được những việc nặng nề, cũng không còn chịu đựng được nắng sương. Bà phải kiếm việc nhà, việc ở trong nhà. Ở làng này, chỉ có việc bế em, như một con bé mười một, mười hai tuổi. Mới đầu còn có nhiều người muốn thuê. Ai cũng nghĩ rằng những bà già tính cẩn thận và chẳng bao nhiêu, bữa lưng bữa vực thế nào cũng đủ no; mà đã không no các cụ cũng chỉ lặng im, không ấm ức như những đồ trẻ nhãi, hơi một tí cũng đem chuyện nhà chủ đi kể với đủ mọi người hàng xóm… Nhưng thuê bà được ít lâu, tự nhiên người ta chán. Người ta nhận ra rằng thuê một đứa trẻ con lại có phần thích hơn. Trẻ con cạo trọc đầu. Những lúc tức lên, có muốn cốc nó dăm ba cái thì cứ cốc. Chẳng ai kêu ác! Nhưng bà lão đầu đã bạc. Người ta tức bà đến gần sặc tiết ra đằng mũi cũng không thể giúi đầu bà xuống mà cốc. Cũng không thể chửi. Mắng một câu, đã đủ mang tiếng là con người tệ. Mà bà thì lẩm cẩm, chậm chạp, lì rì. Bà rờ như thể xẩm rờ. Tay bà, đưa bát cơm lên miệng cũng run run. Cơm vương vãi. Tương mắm rớt ra mâm, rớt xuống yếm bà, rớt cả vào đầu tóc, mặt mũi, quần áo đứa bé nằm ở lòng bà. Rồi hơi trái gió, trở trời, bà lại đau mình. Suốt đêm bà thở dài với rên rẩm kêu trời. Có khi bà lại khóc lóc, hờ con. Nghe rợn cả người. Như vậy thì chịu làm sao được? Ấy thế là người ta lại phải tìm cớ tống bà đi. Bà lại phải gạ gẫm ở cho nhà khác… Không đầy một năm trời bà thay đổi đến năm, sáu chủ. Mỗi lần đổi chủ là một lần hạ giá. Thoạt tiên cơm nuôi tháng một đồng. Rồi cơm nuôi tháng năm hào. Rồi cơm nuôi, một năm bốn đồng. Rồi hai đồng. Rồi chẳng có đồng nào. Đến nước ấy mà cũng chẳng ma nào chịu được. Một hôm, người chủ cuối cùng sai bà xách hai cái lọ đi kín nước. Bà bào bà chỉ có thể mang một lọ. Y đã lấy sự ấy làm khó chịu, nhưng cố nhịn. Nhưng một lọ cũng không xong. Bà xách một lọ nước đầy, ở dưới cầu ao bước lên bờ, chẳng biết bẩy rẩy thế nào mà ngã khuỵu xuống, vỡ tan cái lọ và què một bên tay. Nghe tiếng bà kêu, chủ nhà phải chạy ra đỡ bà về. Không ai có thừa cơm nuôi báo cô bà. Y bèn đãi bà năm hào cho bà về hưu trí. Từ ngày ấy đến nay tính ra đã hơn ba tháng rồi… Trích truyện ngắn “ Một bữa no”, Nam Cao Ngữ liệu 2 Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời. Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve. Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen; đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị Liên không hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn... Trích Hai đứa trẻ,Thạch Lam 16/11/2022 0 Trả lời Viết đoạn văn nêu cảm nhận về nhân vật được nói đến trong 2 đoạn ngữ liệu sau đây Viết đoạn văn nêu cảm nhận về nhân vật được nói đến trong 2 đoạn ngữ liệu sau đây Ngữ liệu 1 Nuôi cháu bảy năm trời, mãi cho đến khi nó đã mười hai, bà cho nó đi làm con nuôi người ta lấy mười đồng. Thì cải mả cho bố nó đã mất tám đồng rồi. Còn hai đồng bà dùng làm vốn đi buôn, kiếm mỗi ngày dăm ba xu lãi nuôi thân. Có chạy xạc cả gấu váy, hết chợ gần đến chợ xa, thì mới kiếm nổi mỗi ngày mấy đồng xu. Sung sướng gì đâu! Ấy thế mà ông trời ông ấy cũng chưa chịu để yên. Năm ngoái đấy, ông ấy còn bắt bà ốm một trận thập tử nhất sinh. Có đồng nào hết sạch. Rồi chết thì không chết nhưng bà lại bị mòn thêm rất nhiều sức lực. Chân tay bà đã bắt đầu run rẩy. Người bà thỉnh thoảng tự nhiên bủn rủn. Đang ngồi mà đứng lên, hai mắt cũng hoa ra. Đêm nằm, xương cốt đau như giần. Đi đã thấy mỏi chân. Như vậy thì còn buôn bán làm sao được? Nghĩ đến nắng gió bà đã sợ. Tuy vậy mà bà vẫn phải ăn. Chao ôi! Nếu người ta không phải ăn thì đời sẽ giản dị biết bao? Thức ăn không bao giờ tự nhiên chạy vào mồm. Có làm thì mới có. Nhưng bây giờ yếu đuối rồi, bà không còn kham được những việc nặng nề, cũng không còn chịu đựng được nắng sương. Bà phải kiếm việc nhà, việc ở trong nhà. Ở làng này, chỉ có việc bế em, như một con bé mười một, mười hai tuổi. Mới đầu còn có nhiều người muốn thuê. Ai cũng nghĩ rằng những bà già tính cẩn thận và chẳng bao nhiêu, bữa lưng bữa vực thế nào cũng đủ no; mà đã không no các cụ cũng chỉ lặng im, không ấm ức như những đồ trẻ nhãi, hơi một tí cũng đem chuyện nhà chủ đi kể với đủ mọi người hàng xóm… Nhưng thuê bà được ít lâu, tự nhiên người ta chán. Người ta nhận ra rằng thuê một đứa trẻ con lại có phần thích hơn. Trẻ con cạo trọc đầu. Những lúc tức lên, có muốn cốc nó dăm ba cái thì cứ cốc. Chẳng ai kêu ác! Nhưng bà lão đầu đã bạc. Người ta tức bà đến gần sặc tiết ra đằng mũi cũng không thể giúi đầu bà xuống mà cốc. Cũng không thể chửi. Mắng một câu, đã đủ mang tiếng là con người tệ. Mà bà thì lẩm cẩm, chậm chạp, lì rì. Bà rờ như thể xẩm rờ. Tay bà, đưa bát cơm lên miệng cũng run run. Cơm vương vãi. Tương mắm rớt ra mâm, rớt xuống yếm bà, rớt cả vào đầu tóc, mặt mũi, quần áo đứa bé nằm ở lòng bà. Rồi hơi trái gió, trở trời, bà lại đau mình. Suốt đêm bà thở dài với rên rẩm kêu trời. Có khi bà lại khóc lóc, hờ con. Nghe rợn cả người. Như vậy thì chịu làm sao được? Ấy thế là người ta lại phải tìm cớ tống bà đi. Bà lại phải gạ gẫm ở cho nhà khác… Không đầy một năm trời bà thay đổi đến năm, sáu chủ. Mỗi lần đổi chủ là một lần hạ giá. Thoạt tiên cơm nuôi tháng một đồng. Rồi cơm nuôi tháng năm hào. Rồi cơm nuôi, một năm bốn đồng. Rồi hai đồng. Rồi chẳng có đồng nào. Đến nước ấy mà cũng chẳng ma nào chịu được. Một hôm, người chủ cuối cùng sai bà xách hai cái lọ đi kín nước. Bà bào bà chỉ có thể mang một lọ. Y đã lấy sự ấy làm khó chịu, nhưng cố nhịn. Nhưng một lọ cũng không xong. Bà xách một lọ nước đầy, ở dưới cầu ao bước lên bờ, chẳng biết bẩy rẩy thế nào mà ngã khuỵu xuống, vỡ tan cái lọ và què một bên tay. Nghe tiếng bà kêu, chủ nhà phải chạy ra đỡ bà về. Không ai có thừa cơm nuôi báo cô bà. Y bèn đãi bà năm hào cho bà về hưu trí. Từ ngày ấy đến nay tính ra đã hơn ba tháng rồi… Trích truyện ngắn “ Một bữa no”, Nam Cao Ngữ liệu 2 Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời. Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve. Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen; đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị Liên không hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn... Trích Hai đứa trẻ,Thạch Lam 16/11/2022 0 Trả lời Viết 1 đoạn văn kể về kỉ niệm của mình vói người bạn thân có sử dụng yếu tố miêu tả biểu cảm Viết 1 đoạn văn kể về kỉ niệm của mình vói người bạn thân có sử dụng yếu tố miêu tả biểu cảm 17/11/2022 0 Trả lời Viết bài văn nói về lòng kiên trì sử dụng yếu tố miêu tả và biểu cảm nói về lòng kiên trì sử dụng yếu tố miêu tả +biểu cảm 17/11/2022 0 Trả lời Có nhận định cho rằng Ai ma tốp đã khơi dậy, mở đường cho một xã hội phát triển và tiến bộ hơn bằng sự hiểu biết của em qua văn bản "Hai cây phong". Em hãy làm sáng tỏ nhận định trên Có nhận định cho rằng Ai ma tốp đã khơi dậy,mở đường cho một xã hội phát triển và tiến bộ hơn bằng sự hiểu biết của em qua văn bản "Hai cây phong" hãy làm sáng tỏ nhận định trên Nêu nhận định 22/11/2022 0 Trả lời Viết một bài văn giới thiệu về tác giả thơ mới Viết một bài văn giới thiệu về tác giả thơ mới - Giới thiệu chung tên, quê, xuất thân, năm sinh, năm mất - Cuộc đời - con người tiểu sử - Sự nghiệp sáng tác + Tác phẩm chính + Phong cách sáng tác + Vị trí trong nên văn học 24/11/2022 0 Trả lời Theo em, nguyên nhân nào quyết định sự hồi sinh Giôn-Xi? Theo em nguyên nhân nào quyết định sự hồi sinh Giôn-Xi 25/11/2022 0 Trả lời Theo em, nguyên nhân nào quyết định sự hồi sinh Giôn-xi? Theo em nguyên nhân nào quyết định sự hồi sinh Giôn-Xi Giúp mình với ạ 25/11/2022 1 Trả lời Viết đoạn văn trình bày suy nghĩ của em về tịnh thần tự học trong đoạn văn sử dụng ít nhất 2 câu ghép viết đoạn văn trình bày suy nghĩ của em về tịnh thần tự học trong đoạn văn sử dụng ít nhất 2 câu ghép giúp mik với ak mik cần gâsp 28/11/2022 0 Trả lời Người xưa có câu “Lá lành đùm lá rách” khuyên chúng ta điều gì? Trong câu Người xưa có câu “Lá lành đùm lá rách” khuyên chúng ta phải yêu thương và đùm bọc lẫn nhau Dấu ngoặc có có ý nghĩa gì 28/11/2022 0 Trả lời ZUNIA9 XEM NHANH CHƯƠNG TRÌNH LỚP 8 YOMEDIA
phân tích cấu tạo ngữ pháp của các câu sau